Hầu trời
Tản Đà được coi là “người nằm vắt mình qua hai thế
kỉ”, là gạch nối giữa thơ mới và thơ cũ, là người đặt nền móng cho thơ mới. Những đánh giá ấy đã xác nhận vị trí quan trọng của Tản Đà đối với văn học Việt Nam giai đoạn giao thời. Ông là đại diện tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn này, giai đoạn văn học dân tộc có những bước chuyển mình, bắt đầu cho giai đoạn hiện đại hoá mau lẹ. Hầu trời là một bài thơ
có rất nhiều điểm mới. Bài thơ thể hiện đậm nét cá tính sáng
tác của Tản Đà. Mạch thơ
được triển khai theo lôgíc
một câu chuyện với các chi tiết cụ thể, rành mạch, khiến cho bài thơ hấp dẫn và có sức thuyết phục : nằm một mình, buồn nên dậy đun nước uống rồi ngâm văn, động đến Trời, tiên xuống hỏi rồi đưa
lên gặp Trời, Trời cùng chư
tiên đón tiếp long trọng, mời đọc thơ,
giới thiệu về mình rồi đọc thơ
và giãi bày cảnh ngộ cùng Trời, Trời giải thích, khen ngợi rồi cho đưa về trần giới. Nhà thơ đã chọn một cách rất độc đáo để thể hiện tâm sự của mình.
Chuyện hầu Trời bằng tưởng tượng đã giúp nhà thơ khẳng định tài năng của bản thân và bộc lộ quan niệm mới mẻ của ông về nghề văn, đồng thời thể hiện ý thức của cái Tôi cá nhân đầy cá tính của mình. Nhà thơ đã mở đầu câu chuyện của mình bằng một giọng điệu rất hấp dẫn, bịa mà rất tự nhiên, hóm hỉnh :
Đêm qua chẳng biết có hay không,
...
Thật được lên tiên sướng lạ lùng.
Lí do được Trời mời lên hầu cũng thật đời thường và dễ tin : Nằm buồn dậy đun nước uống, rồi ngâm thơ, chơi trăng. Và “Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà” đã làm Trời mất ngủ. Thế là được lên Trời.
Cuộc hội kiến với Trời và chư tiên được kể lại chi tiết, hồn nhiên, nghe tự nhiên như thật. Tác giả đã chọn lối kể chuyện nôm na của dân gian để tái hiện câu chuyện hầu Trời.
Nhà thơ tưởng tượng tình huống gặp Trời để giới thiệu về mình. Giới thiệu rõ, chính xác tên tuổi, quê hương, đất nước, nghề nghiệp, kể tên các tác phẩm của mình. Nhà thơ đã chọn tình huống độc đáo : gặp Trời, ngâm thơ cho Trời cùng chư tiên nghe, qua đó khẳng định tài năng của mình. Khẳng định một cách rất tự nhiên :
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.
Văn dài, hơi tốt ran cung mây !...
Tự khen tài của mình nhưng lại chọn hình thức để Trời cùng chư tiên khen ngợi. Đây là một kiểu ngông đáng yêu.
Sau khi giới thiệu các tác phẩm, có phân chia rõ ràng thành từng loại theo quan điểm của bản thân (văn thuyết lí, văn chơi, văn tiểu thuyết, văn vị đời và lối văn dịch) thì đưa ra nhận xét, cùng với những nhận xét của Trời “Văn đã giàu thay, lại lắm lối” (đa dạng về thể loại, giọng điệu). Nhà thơ lại còn mượn lời của Trời để khẳng định tài năng của bản thân :
Trời lại phê cho : “Văn thật tuyệt
Văn trần được thế chắc có ít !...
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết !”
Nhà thơ đã hiên ngang khẳng định cái Tôi của mình, gắn liền với tên tuổi thật của mình. Đó là thái độ ngông của người có tài và biết trân trọng, khẳng định tài năng của mình. Trong thời đại của Tản Đà, đất nước đang mất chủ quyền, tự giới thiệu như còn là biểu hiện của sự tự hào, tự tôn dân tộc. Hóm hỉnh hơn, nhà thơ còn khẳng định cả phong cách ngông của mình :
“Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới vì tội ngông.”
Qua cuộc đối thoại tưởng tượng với Trời, nhà thơ còn khẳng định nghĩa vụ và trách nhiệm cao cả của mình nói riêng và của người nghệ sĩ nói chung là lo việc “thiên lương” của nhân loại :
Trời rằng : “Không phải là Trời đày,
Trời định sai con một việc này
Là việc “thiên lương” của nhân loại,
Cho con xuống thuật cùng đời hay.”
Tạo tình huống tưởng tượng này để an ủi mình, đồng thời cũng là để nói lên ý nghĩa cao quý của văn chương, của nhà văn.
Cũng nhân đây, nhà thơ giãi bày tâm sự của mình về nghề văn. Tản Đà được coi là người đặt nền móng cho thơ Mới, không chỉ bởi thơ ông mang hơi thở hiện đại của thời đại với cái Tôi cá nhân sừng sững giữa trang văn mà còn vì ông là nhà thơ đầu tiên “mang văn chương ra bán phố phường”, coi nghề văn là nghề kiếm sống. Khi giãi bày cảnh ngộ với Trời, nhà thơ đã kể lể rất chi tiết về nghề làm văn kiếm sống này. Tản Đà cũng đã dùng lời Trời để tự an ủi mình.
Với Hầu Trời, Tản Đà đã mang đến cho văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX một không khí mới. Dưới hình thức một bài thơ, câu chuyện tưởng tượng vui và đầy hào hứng, nhà thơ đã khẳng định cái Tôi cá nhân của người nghệ sĩ. Nhà thơ vừa tự tin khẳng định tài năng của mình vừa nói lên quan điểm làm văn chương, đó là viết văn để phục vụ thiên lương. Viết văn hay làm cho đời đẹp hơn là nhiệm vụ trời đã trao cho người nghệ sĩ.
Sáng tạo độc đáo về mặt nghệ thuật của Tản Đà là đã đưa ngôn ngữ đời thường nôm na, dễ hiểu, dung dị mà vẫn rất gợi cảm vào thơ ca. Ngôn ngữ thơ ở Hầu Trời đã có sự xâm nhập của giọng điệu văn xuôi và ngôn ngữ bình dân. Không quá câu nệ vào vần luật nên mạch cảm xúc được phát triển rất tự nhiên và cái Tôi cá nhân đã thoả sức bộc lộ và thể hiện mình. Điểm độc đáo và thành công của bài thơ còn thể hiện ở chỗ tạo ra cái cớ là tình huống hầu Trời để tự khẳng định tài năng và quan niệm của mình. Đó là một kiểu ngông rất nghệ sĩ, vui vẻ và đáng yêu. Bài thơ cũng đã phác hoạ một chân dung thi sĩ Tản Đà với phong cách ngông độc đáo, đó là cái ngông của một nhà nho tài tử ở thời kì mà ý thức cá nhân bắt đầu được trân trọng và khẳng định.
Chuyện hầu Trời bằng tưởng tượng đã giúp nhà thơ khẳng định tài năng của bản thân và bộc lộ quan niệm mới mẻ của ông về nghề văn, đồng thời thể hiện ý thức của cái Tôi cá nhân đầy cá tính của mình. Nhà thơ đã mở đầu câu chuyện của mình bằng một giọng điệu rất hấp dẫn, bịa mà rất tự nhiên, hóm hỉnh :
Đêm qua chẳng biết có hay không,
...
Thật được lên tiên sướng lạ lùng.
Lí do được Trời mời lên hầu cũng thật đời thường và dễ tin : Nằm buồn dậy đun nước uống, rồi ngâm thơ, chơi trăng. Và “Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà” đã làm Trời mất ngủ. Thế là được lên Trời.
Cuộc hội kiến với Trời và chư tiên được kể lại chi tiết, hồn nhiên, nghe tự nhiên như thật. Tác giả đã chọn lối kể chuyện nôm na của dân gian để tái hiện câu chuyện hầu Trời.
Nhà thơ tưởng tượng tình huống gặp Trời để giới thiệu về mình. Giới thiệu rõ, chính xác tên tuổi, quê hương, đất nước, nghề nghiệp, kể tên các tác phẩm của mình. Nhà thơ đã chọn tình huống độc đáo : gặp Trời, ngâm thơ cho Trời cùng chư tiên nghe, qua đó khẳng định tài năng của mình. Khẳng định một cách rất tự nhiên :
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.
Văn dài, hơi tốt ran cung mây !...
Tự khen tài của mình nhưng lại chọn hình thức để Trời cùng chư tiên khen ngợi. Đây là một kiểu ngông đáng yêu.
Sau khi giới thiệu các tác phẩm, có phân chia rõ ràng thành từng loại theo quan điểm của bản thân (văn thuyết lí, văn chơi, văn tiểu thuyết, văn vị đời và lối văn dịch) thì đưa ra nhận xét, cùng với những nhận xét của Trời “Văn đã giàu thay, lại lắm lối” (đa dạng về thể loại, giọng điệu). Nhà thơ lại còn mượn lời của Trời để khẳng định tài năng của bản thân :
Trời lại phê cho : “Văn thật tuyệt
Văn trần được thế chắc có ít !...
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết !”
Nhà thơ đã hiên ngang khẳng định cái Tôi của mình, gắn liền với tên tuổi thật của mình. Đó là thái độ ngông của người có tài và biết trân trọng, khẳng định tài năng của mình. Trong thời đại của Tản Đà, đất nước đang mất chủ quyền, tự giới thiệu như còn là biểu hiện của sự tự hào, tự tôn dân tộc. Hóm hỉnh hơn, nhà thơ còn khẳng định cả phong cách ngông của mình :
“Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới vì tội ngông.”
Qua cuộc đối thoại tưởng tượng với Trời, nhà thơ còn khẳng định nghĩa vụ và trách nhiệm cao cả của mình nói riêng và của người nghệ sĩ nói chung là lo việc “thiên lương” của nhân loại :
Trời rằng : “Không phải là Trời đày,
Trời định sai con một việc này
Là việc “thiên lương” của nhân loại,
Cho con xuống thuật cùng đời hay.”
Tạo tình huống tưởng tượng này để an ủi mình, đồng thời cũng là để nói lên ý nghĩa cao quý của văn chương, của nhà văn.
Cũng nhân đây, nhà thơ giãi bày tâm sự của mình về nghề văn. Tản Đà được coi là người đặt nền móng cho thơ Mới, không chỉ bởi thơ ông mang hơi thở hiện đại của thời đại với cái Tôi cá nhân sừng sững giữa trang văn mà còn vì ông là nhà thơ đầu tiên “mang văn chương ra bán phố phường”, coi nghề văn là nghề kiếm sống. Khi giãi bày cảnh ngộ với Trời, nhà thơ đã kể lể rất chi tiết về nghề làm văn kiếm sống này. Tản Đà cũng đã dùng lời Trời để tự an ủi mình.
Với Hầu Trời, Tản Đà đã mang đến cho văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX một không khí mới. Dưới hình thức một bài thơ, câu chuyện tưởng tượng vui và đầy hào hứng, nhà thơ đã khẳng định cái Tôi cá nhân của người nghệ sĩ. Nhà thơ vừa tự tin khẳng định tài năng của mình vừa nói lên quan điểm làm văn chương, đó là viết văn để phục vụ thiên lương. Viết văn hay làm cho đời đẹp hơn là nhiệm vụ trời đã trao cho người nghệ sĩ.
Sáng tạo độc đáo về mặt nghệ thuật của Tản Đà là đã đưa ngôn ngữ đời thường nôm na, dễ hiểu, dung dị mà vẫn rất gợi cảm vào thơ ca. Ngôn ngữ thơ ở Hầu Trời đã có sự xâm nhập của giọng điệu văn xuôi và ngôn ngữ bình dân. Không quá câu nệ vào vần luật nên mạch cảm xúc được phát triển rất tự nhiên và cái Tôi cá nhân đã thoả sức bộc lộ và thể hiện mình. Điểm độc đáo và thành công của bài thơ còn thể hiện ở chỗ tạo ra cái cớ là tình huống hầu Trời để tự khẳng định tài năng và quan niệm của mình. Đó là một kiểu ngông rất nghệ sĩ, vui vẻ và đáng yêu. Bài thơ cũng đã phác hoạ một chân dung thi sĩ Tản Đà với phong cách ngông độc đáo, đó là cái ngông của một nhà nho tài tử ở thời kì mà ý thức cá nhân bắt đầu được trân trọng và khẳng định.
Dàn Ý:Hầu trời(Dành cho mấy ng' thích chế)
- Câu chuyện
xảy ra vào “đêm qua” (câu
1) : Gợi khoảng khắc yên tĩnh, vắng
lặng.
- Câu truyện
kể về một giấc
mơ được lên cõi tiên (câu 4).
- Nhân vật
trữ tình là tác giả, đang mang tâm trạng “chẳng phải
hoảng hốt, không
mơ
màng”
- Biện
pháp nghệ thuật:
+ Điệp
từ ‘thật” : nhấn mạnh
tâm trạng cảm xúc của thi nhân.
+ Câu cảm
thán : Bộc lộ cảm xúc bàng hoàng.
+ Câu khẳng
định : dường như lật
lại vấn đề: mơ
và tỉnh, hư mà như thực.
- Cách giới
thiệu trên đã gợi cho người đọc về
tứ thơ lãng mạng nhưng
cảm xúc là
có thực.
Tác giả muốn người đọc
cảm nhận được cái “hồn
cốt” trong cõi mộng,
mộng
mà như tỉnh, hư mà như
thực.
=> Cảm
nhận được “cái tôi” cá nhân đầy chất lãng mạng,
bảy bổng pha lẫn nét “ngông” trong thơ thi nhân. Với cách vào chuyện độc đáo có duyên đã làm cho
câu truyện
mà tác giải sắp kể trở
nên hấp dẫn lôi cuốn.
2. Thi nhân đọc
thơ cho trời và chư tiên nghe:
a) Thái độ
của thi nhân khi đọc thơ và việc
thi nhân nói về tác phẩm của mình:
- Thi nhân đọc
rất cao hứng, sảng khoái và có phần
tự đắc:
“ Đọc
hết văn vần sang văn xuôi
Hết
văn thuyết lý lại văn chơi”
- Thi nhân kể
tường tận, chi tiết về các tác phẩm
của mình:
“Hai quyển
khối tình văn lý thuyết
Hai khối
tình còn là văn chơi
Thần
tiên, giấc mộng văn tiểu thuyết….”
- Giọng
đọc: đa dạng, hóm hỉnh, ngông nghênh có phần tự đắc.
=> Đoạn
thơ cho thấy thi nhân rất ý thức về
tài năng văn thơ của mình và cũng là
người
táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ “cái tôi” cá thể.
Ông cũng rất “ngông” khi
tìm đến
trời để khẳng dịnh
tài năng. Đây là niềm
khát khai chân thành trong tâm
hồn
thi sĩ.
b) Thái độ
của người nghe:Rất ngưỡng mộ
tài năng thơ văn của tác giả.- Thái độ của trời:
khen rất nhiệt thành: văn thật tuyệt, văn trần
được thế chắc có ít,
văn chuốt
như sao băng…
- Thái độ
của chư tiên: xúc động, hâm mộ và tán thưởng…Tâm nở dạ, cơ
lè lưỡi…
=> Cả
đoạn thơ mang đậm chất
lãng mạng và thể hiện tư
tưởng thoát li trước cuộc
đời.
3. Thi nhân trò chuyện
với trời:
a) Thi nhân kể
về hoàn cảnh của mình:
- Thi nhân kể
họ tên, quê quán:
“ Con tên Khắc
Hiếu họ Nguyễn
Quê ở
Á châu về địa cầu
Sông Đà núi Tản
nước Việt Nam”
=>Trong văn chương
việc thể hiện họ
tên trong tác phẩm chính
là một cáh để
khẳng
định cái tôi cá nhân của mình.
- Thi nhân kể
về cuộc sống: Đó là môt cuộc
sống nghèo khó, túng thiếu, thân phận
nhà văn bị
rẻ rúng, coi thường. Ở trần
gian ông không tìm được
tri âm, nên phải lên tận cỏi trời
để thoả nguyện nỗi
lòng.
+ “Bẩm
trời hoàng cảnh con thực nghèo khó”
+ “Trần
gian thước đất cũng không có”
+ “Văn chương
hạ giới rẻ như
bèo”
+ “Làm mãi quanh năm chẳng
đủ tiêu’
Đó cũng chính là hiện
thực cuộc sống của
người nghệ sĩ trong xã hội lúc bấy giờ,
một cuộc sống cơ
cực không tấc đất cắm
dùi, thân phận bĩ rẻ rúng, làm chẳng đủ
ăn.
=> Qua đoạn
thơ tác giả đã cho người đọc thấy
một bức tranh chân thực và cảm
động về chính cuộc đời mình và cuộc
đời nhiều nhà văn nhà thơ khác.
=> Cảm
hứng hiện thực bao trùm cả
đoạn thơ này.
b) Trách nhiệm
và khát vọng của thi nhân:
- Nhiệm
vụ trời giao: Truyền bá thiên lương.
=>Nhiệm
vụ trên chứng tỏ Tản
Đà lãng mạn chứ không hoàn toàn thoát li cuộc
sống.
Ông vẫn ý thức về nghĩa vụ,
trách nhiệm đối với đời
để đem lại cuộc sống
ấm no hành phúc hơn.
- Thi nhân khát khao được
gánh vác việc đời => đó cũng là một cách tự khẳng
định
mình trước thời cuộc.
=>Như
vậy có thể nói trong thơ Tản đà cảm
hứng lãng mạng và cảm hứng
hiện
thực
đan xen khăng khít .
*****Kết bài******* ghi hai cái nội dung và nghê thuật vào là xog(chế thêm mấy cái liên từ)
1. Nội
dung:
- Bài thơ
thể hiện cái tôi cá nhân ngông
nghênh, kiêu bạc, hào hoa
và cái tôi cô
đơn, bế tắc trước
thời cuộc.
- Có thể
thấy nhà thơ đã tìm được hướng đi đúng đắn
để khẳng định mình.
2. Nghệ
thuật:
- Cách kể
chuyện hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn người đọc.
- Ngôn ngữ
thơ chọn lọc, tinh tế,
gợi cảm, không cách điệu, ước lệ.
- Tác giả
vừa là người kể chuyện
vừa là nhân vật chính.
- Cảm
xúc bộc lộ thoải mái, tự
nhiên, phóng túng.
- Thể
thơ thất ngôn trường thiên khá tự do…